Ai Mua Hành Tôi 26/10/2005

誰か私の葱(ネギ)を買って

Ngày xưa ba anh em nhà kia, nghèo quá, nghèo đến nỗi〜程・極度に bố chết, không góp集める đủ tiền mua nổi(強調詞) chiếc áo quan cỗ tạp雑な棺おけ.

昔、ある家に貧しい三人の兄弟がいた。父親が亡くなっても死に装束や粗末な棺おけさえも(お金を出し合っても)買えない程貧乏だった。

     Ba anh em phải
巻く di-hài遺体 bố vào trong một cái chiếu cũ rồi chờ tối khuya mới dám đốt đuốc vác肩に担ぐ mai khiêng重い運ぶ担ぐ  bố ra đồng田んぼ, vì chôn埋める ban ngày ban mặt sợ làng xóm trông thấy người ta chê cười.あざ笑う
父の遺体は古いむしろで巻いて、日中は村の人に見られてあざ笑われるのを恐れ夜中を待って田んぼの墓に運んだ。


     Tha-ma
墓地 thì xa, mà ba anh em thì cùng đói cơm, gầy còmやせ細った, ốm yếu病弱 nên đi được một quãng lại長い道を休み休み行く phải đặt bố xuống để thở.
田んぼの墓までは遠く、皆はやせ細っていて遠い道は疲れるので休みながら行った。途中遺体を降ろして一息ついた。


     Một lát sau, anh Cả khiêng重いものを担いで移動する đằng đầu頭のほう vui mừng bảo anh Hai và anh Ba:
少しして、頭のほうを持っていた長男が嬉しそうな声で言った。


     - Thầy linh thiêng神聖な quá, hai chú ạ, thầy thấy chúng ta yếu đuối病弱 nên nhẹ bỗng突然 hẳn確実に đi, tôi tưởng như khiêng重い運ぶ chiếu không thôi, chú ạ.
「真面目な父だったなお前たち。父は我々の貧弱さを見て急に軽くなったよ。まるでむしろだけ運んでいるようなものだ。」


     Anh Hai khiêng重い運ぶ đằng chân cũng cười, nói:
足の方を運んでいた次男は笑いながら言った。


     - Ờ nhỉ, như không có gì nữa, bác ạ.
「そうだな。何も持ってないようだよ、兄さん。」

     Còn người em út cầm đuốc松明 thì chẳng nói gì, cứ việc nhẩn nhaゆっくり rọi点火する đường cho hai anh đi.
松明に火をつけて二人の行く手を照らしながらゆっくり歩いていたた末弟は何も言わなかった。


     Kỳ thực実は thì không phải vì người chết linh thiêng mà vì cái thây死体 đã rơi落ちる tụt滑り落ちる xuống đất từ lúc nào, nhưng hai người khiêng重い運ぶ mệt nhọc疲れる quá nên chẳng biết gì cả.
実は死体はいつのまにか地面に滑り落ちていたのだったが、重さで疲れていた二人の兄は何にも知らないのだった。


     Thế rồi ba anh em đi đến tha ma đào huyệt chôn bố nghĩa là chôn cái chiếu không có xác死体 bố nằm trong.
それから皆は墓地に着いて、父の入っていないむしろを穴に埋めた。


     Lúc trở về, một cơn gió mạnh làm tắt消す mất đuốc. Nhưng không sao, đường trong làng ba anh em đã quen thuộc覚え慣れる lắm, lần mò mà đi cũng được. Bỗng người em út vấpぶつかる phải một vật răn rắn固いもの, bèn cúi xuống下げる sờ soạng触る rồi kêu to bảo hai anh:

帰り道、強風が吹き松明を吹き消した。でも心配はいらない。三人は村の道は覚えていてあてづっぽでも大丈夫だ。

突然、末の弟が何か硬い物にぶつかった。それで俯いて触ってから大きな声で二人の兄に言った。

     - Cái thây ma
抜け殻 hai anh ạ. Lạnh quá đi mất thôi.
「これは死体だよ。もう冷たくて無くなっている。」


     Hai anh cùng xuống rờ:
二人の兄は手を伸ばして触ってみた。


     - Ưø, cái thây ma thực?
「あぁ、本当に死体だ。」


     Giáもし đuốc松明không tắt thì ba người đã nhận thấy cái thây ma đó chính là bố mình.
もし松明の灯が消えていなかったら、三人はその死体は父だと分かったのに。


     Anh Cả ngậm口に含む ngùiもの悲しい bảo hai em:
長兄は静かな口調で二人の弟に言った。


     - Chả biết ai mà lại chết đường chết 拝む・赦す thế này nhỉ!
「こんな道の途中で死んでいるなんて、誰だか知らないしなぁ。」


     Anh Hai cũng buồn rầu悲しい nói:
次兄も悲しそうに言った。


     - Chắc người ta ngộ誤り gió, xa cửa xa nhà nên mới chết bỏ xác ở giữa đường như thế này.
「恐らく家族の誰か、家から遠いので誤ってここへ置いたんだろう。」


     Anh Ba bàn:
末弟は


     - Thương hại傷害 quá nhỉ! Hay anh em ta chôn làm phúc?
「可哀相だな。成仏するように埋めてあげようさ。」


     - Phải đấy! Chôn làm phúc.
「そうだな!埋めてやろう!」


     Tức thì ba anh em xúm集まる lại khiêng重い運ぶ cái tử thi屍体, rồi chôn vùi埋葬 ở một cái nhỏ bên đường.
三人は死体を運んで小さな丘の道のわきに埋めた。

 

     Chiều hôm sau ba anh em ra đồng viếng弔う mộ thấy mả bố vẫn dẹt đét平らになる, còn mả của ai bên đường không biết thì mối xông đùn下から押し出す lên cao 土盛り. Ba người cũng không ngờ rằng đó là mả mình chôn làm phúc tối hôm trước vì đêm khuya không đèn không đóm火種 chôn vội chôn vàng thì sáng ra còn nhớ chỗ nào vào chỗ nào nữa...

数日後の昼下がり、三人は弔いをしに田んぼに行った。見ると父の墓は平らで、誰の墓か知らないが土が盛り上がっていた。三人は先日の夜中に明かりもなく急いで埋めたので誰も不思議にも思わなかった。明かりがあればどこに埋めたか分かったのに、、、。


     Đêm hôm ấy anh Cả thấy con rồng vàng về báo mộng報夢 rằng:
ある日の夜、長男は竜のお告げを聞いた。


-“ Ông Cả ơi! Ông để nhầm
間違える mả bố ông vào chính giữa hàm tôi, làm tôi đau lắm không chịu được. Tôi van懇願 ông, ông chạy đi nơi khác cho. Tôi có bao nhiêu vàng bạc金銀 xin biếu ông tuốt除く, để đền償う ơn ông.
「お前!お前は誤って私の顎の間に埋めたので痛くて我慢できない。

頼むから他の場所に動かしてくれないか。私はいっぱい金銀を持っている。それをやるから墓を移してくれないか。」


     Sáng dậy anh Cả thấy gian家の間  nhà chật hẹp狭い của mình đầy ních詰め込む những thỏi vàng金の延べ棒, thỏi bạc sáng nhoáng. Anh ta vội vàng急いで cất ráoすっかり・涸れる cả đi vào một nơi kín固く閉じた, rồi xăm xăm ra直線に進む đồng野原 chạy mả bố nhích sang少し移動する một bên. Anh ta không bàn với anh em, sợ chúng人々 hỏi vặn巻くcớ動機・喪中mộ cha vừa yên đã chạy ngay như thế. Giấu diếm隠す không xong, mà nói thật lại phải chia bạc金銭をわける cho hai em, rất là không nên.
長兄は朝起きて自分の狭い家に金の延べ棒や光り輝くダイヤモンドがしき詰められているのを見た。

彼は急いで立ち上がり固く閉じた場所に入って、それから田んぼの墓へ行き墓を移動した。彼はこんなに急いで走って墓参りでもないのに墓へ行ったのを二人の弟に黙っていた。隠しとおすのは、本当のことを言えば弟たちと分けなければならない。それは出来ない。


     Nhưng đêm hôm sau, con rồng vàng
黄色竜 lại về báo mộng cho anh Hai, vì thật ra anh Cả đã chạy mả bố đâu, anh chỉ mới chôn lại cái chiếu mà anh tưởng có gói thây bố mình. Con rồng vàng về báo mộng rằng:
しかして、数日後の夜竜が次兄の夢の中に現れて告げた。

本当は長兄が墓を動かす。私はただむしろを埋める。死体を包むと思った。竜は夢の中で言った。


     -“ Ông Hai ơi, ông để nhầm mả
bố ông vào chính giữa hàm tôi, làm tôi đau lắm không chịu được. Tôi van ông, ông chạy đi nơi khác cho. Tôi hết cả vàng bạc rồi chỉ còn kim cương châu báu金銀財宝 thôi, tôi xin biếu ông tuốt để đền ơn ông.”
次兄よ。お前は誤って墓を埋めたので、私の顎が痛くて我慢できない。頼むから他の場所に動かしてくれないか。

私は金銀財宝が一杯ある。それをお前に上げるから。


     Sáng sớm anh Hai mở bừng mắt
ぱっと目を開ける nhìn ra thấy chói lòe, vì gian nhà chật hẹp, tồi tànみすぼらしい của anh có đầy ánh hào quang後光 rực rỡ輝く tưng bừngきらめく của kim cươngダイヤモンド, châu báu財宝. Anh ta vội cất ráo cả đi vào một nơi thật kín rồi hấp tấp慌てる chạy ra đồng đào phắt mả bố lên chôn xích移動・排除 cái chiếu sang một bên, cũng như anh Cả, anh ta tưởng cái chiếu ấy có gói thi thể bố mình ở trong.
朝早く彼はぱっと目を開けるとみすぼらしく狭い家が財宝やダイヤモンドのきらめきで輝いて見えた。

彼は急いで叫んで慌てて田んぼまで走り墓に行って兄のように墓を移動した。


     Xong xuôi
順調に行く, anh ta trở về nhà hí hửngはしゃぐ mừng thầm định bụng心に決める sẽ bán kim cươngダイヤモンド châu báu đi để tậu ruộng田を買う thật nhiều, dựng建てる nhà thực đẹp thực to.
上手くいったので家に帰り喜びはしゃぎ回った。密かに心に決めた。

財宝やダイヤモンドを売ろう。そして大きくて素晴しい家を建て田んぼを買うんだ。


     Đến lượt anh Ba thấy con rồng vàng về báo mộng vì mả
chưa chạy動く・脱れる thì hàm nó còn đau. Nó báo mộng rằng:
末弟の番が来て、夢の中で墓をまだ動かしてないので顎が痛い竜が末弟に言った。


     - “Ông Ba ơi, ông để nhầm mả
bố ông vào chính giữa hàm tôi, làm tôi đau đớn lắm không chịu được. Tôi van懇願する ông, ông chạy動かすđi nơi khác cho. Tôi hết cả vàng bạc, kim cươngダイヤモンド, châu báu金銀財宝rồi, chỉ còn mỗi một lọ nước này tôi xin biếu để đền ơn ông. Nước trong lọ quí lắm đấy, sau này ông sẽ dùng được nhiều việc rất lạ.”
”末弟よ。お前の父の墓の場所を間違えたおかげで顎が痛くて堪らん。頼むよ、どこか他へ移してくれないか。わしは財宝は何でもあるがひとつの瓶をお前に上げよう。とても貴重な瓶で、多くの奇妙なことに使うことが出来よう。“


     Sáng dậy anh Ba không thấy gian nhà chật hẹp
極狭 tồi tànみすぼらしい của mình đầy ních詰め込む những thỏi vàng thỏi bạc sáng nhoáng hay rực rỡ輝く tưng bừng煌めく ánh kim cươngダイヤモンド, châu báu金銀財宝. Anh ta chỉ thấy ở giữa nhà có cái lọ sành陶器 đóng nút栓を締める. Bèn đến mở nút ghé接近 mũi ngửi嗅ぐ thì, giời ơi! Mùi thơm sực nức発散 xông ra khắp nhà, lại văng vẳng遠くから来る trong mùi thơm có tiếng đàn群れ tiếng địch véo von甲高い réo rắt大声. Anh ta đậy覆い隠す vội直に nút lại, tức thì tiếng âm nhạc ngừng bặt黙る.
朝起きて末弟は自分の粗末で狭い家の中に、金銀財宝のダイヤモンドや光り輝く金の延べ棒や銀の棒が敷き詰められているのが見なかったが、ただ栓が締められている陶器の瓶が置いてあった。

そして栓を開けて鼻を近づけてにおいを嗅いで見て驚いた。香りは家中に広まり、匂いの中から大きく甲高い笛の音が聞こえた。

すぐに栓をするとその音楽は消えた。


Anh Ba mỉm cười lẩm bẩm
ぶつぶつ言う:

末弟はニヤニヤしながら言った。

     - Nước quái
mà lại biết đàn biết hát thế này! Hãy cất đi đã vì con rồng vàng nó bảo sau này dùng được nhiều việc.

“音楽が聞こえてくるなんて奇妙な液体だ。黄金の龍は色々な事に使えると言ってたっけ。“


     Anh ta bèn đặt lọ nước vào cái quang
空の・光 treo lên吊るす nhà rất là cẩn thận. Rồi nhớ đền償う lời con rồng vàng nhờ giúp, anh ta vác持っていく mai đến bãi tha ma để chạy nhích mả bố ra khỏi hàm nó chẳng nó kêu đau tội nghiệp!

末弟は慎重に梁に瓶を吊るした。そして黄金の龍の償いの言葉を思い出し、痛くて可哀相なので明日墓地に行って墓を動かしてやろうと思った。

     Nhưng cũng như hai anh trước, anh Ba chỉ chôn
埋める lại cái chiếu, còn mả bố thì vẫn táng埋める hàm con rồng như cũ.

しかし前回の二人の兄のように末弟は莚を埋めた。父の墓はまだ龍の顎の場所に埋められたままだった。

     Trong khi anh Ba đi chạy mộ cho cha, thì chị Ba ở ngoài về, trông thấy cái lọ treo lủng lẳng
ぶらぶら下がっている trên xà nhà. Chị ta bật cười nói một mình:

末弟が墓地に行っている間に、外から帰ってきた妻が梁にぶらぶらと下がっている鬢を見た。妻はぷっと吹き出して独り言を言った。

     - Lẩm cẩm
忘れ物が激しい quá đi mất thôi文末詞! Chẳng biết lọ gì mà nó treo lên đây thế này?

“ホントに忘れ物が激しいね!何の瓶か知らないけどこんなところにぶら下げっぱなしで”


     Bèn lấy xuống mở nút, rồi chẳng buồn
〜しようとしない ghé近づく mũi ngửi嗅ぐ, chẳng kịp〜する間もなく lưu ý留意 đến tiếng địch bay ra, chị ta vội rút tay ra nguyền rủa呪う:

その瓶を下ろしてふたを開けた。においを嗅ごうともしないし、笛の音にも気にする事もなく彼女は手を瓶の中に入れから罵しって言った。


     - Rõ nỡm
餓鬼 ở đâu á! Tưởng có gì lạ, té ra đựng入れる rặt全て・等しく nước mưa là nước mưa, mà lạnh chết đi được.
“亭主はどこへ行っちまったんだ!雨水のような変な瓶だね。冷たくて死ぬところだったよ。”


     Nhưng chị Ba kinh ngạc
驚愕 nhìn bàn tay cổ tay手首 trắng nuốt極白 như mới lột剥ぐ da!
末弟の妻は一皮向けたように真っ白になった手を見て驚いた。
     - Ôi, nước gì quí thế này!
“あれま!なんて不思議な水なんでしょ!”
     Chị ta vui sướng quá,
乱れた tấp lọ nước ra sau nhà rồi tắm gội恩恵を受ける kỳ cọ拭いて汚れを取る từ đầu đến chân. Tức thì chị ta trở nên một nàng tiên lộng lẫy華美な, da trắng như ngà象牙, tóc óng髪の艶 như mây, mắt phượng mày ngài, chân tay nhỏ nhắn xinh xẻoきれい.

妻は嬉しくなって隅々まできれいに拭いた。妻はとてもきれいになった。象牙のような肌、雲のような髪、蚕のような目、すらりとした手足。

     Liền đấy
直ちに có một luống無駄な hành. Những cây hành được nước tắm ở mình của chị Ba chảy流れる vào gốc, lớn vụt飛ぶ様に早く ngay lên, lá dài bằng đòn gánh天秤棒, củ to大きな球根 bằng cái bình vôi石灰.
直ちに無駄な行為を。妻の自分の風呂に葱をいれ


     Anh Ba ở tha ma về thấy mất lọ nước quý lại nghe có tiếng bì bõm
水のはねる音 ở sau nhà, liền chạy ra xem. Lúc ấy chị Ba vừa dốcひっくり返す・空にする cạn汲み尽くす lọ nước. Anh Ba toan mắng叱る積り vợ nhưng nhìn thấy vợ xinh đẹp quá anh ta lại thôi.
末弟は墓地から帰ると家の裏から水の音が聞こえて来た。すぐに走って行って見ると、妻がその瓶の水を空にしたところだった。

末弟は妻を叱ろうと思ったが、妻を見るととてもきれいになっていたので驚いた。


     Từ đấy, anh ta chỉ suốt ngày ngồi ngắm nghía
見つめる vợ chẳng thiết đi làm ruộng, làm nương để kiếm ăn生計を立てる nữa. Vợ trách móc非難する mãi anh ta mới chịu vác肩に担ぐ cuốc vác cày ra đồng. Nhưng chốc chốc終始 anh ta lại quay về nhà ngắm vợ, chẳng làm nên khoai nên ngô玉葱 gì cả.
そのときから末弟は生計を立てる為の畑仕事にも行かずに一日中座って妻を眺めていた。

妻は夫をずっと畑に隙を担いで行くことを非難していた。しかし家に戻ると始終妻を眺めていた。玉葱も芋も作ることはしなかった。


     Vợ giận vợ khóc. Anh đâm hoảng, bèn nghĩ ra một cách: anh ta lấy một cái mo
cauしかめる trát塗る vôi石灰 thực trắng, thực mịn手触りがいい rồi vẽ dung nhan顔付き vợ lên tranh奪う. Khi ra đồng làm lụng軟らかい, anh ta cầm cái mo cau ở bên cạnh để mà ngắm nghía ảnh vợ cho đỡ nhớ.
妻は怒り、泣いた。夫は荒れた。それからある方法を考えた。石灰で白く塗った。田んぼを軟らかくして、傍にあったMOCAUでいつも眺めることが出来るように鞘を作ってその中に写真を入れた。
     Qua một tháng, vợ mỗi ngày một đẹp thêm, mà cây hành mỗi ngày một lớn hơn. Vợ với hành, anh ta cho là cái khoái nhất trên đời.
一ヶ月が過ぎ、日に日に妻はきれいになって行き葱も大きくなって行った。妻と葱、末弟は一番の芋を与えた。


     Một hôm, anh ta đương trồng ngô, thấy một con quạ
cứ sán lăn寄って来て邪魔をする đến bới占う・探しあぐむ, để nhặt拾う những hạt anh ta vừa mới vùi埋める. Anh ta tức mình憤慨する quá cầm viên円形 gạch煉瓦 liaすばやく trúng命中 chân quạ. Nó đau quá kêu ầm騒がしい lên và bay đi mất. Anh Ba đắc chí満足 cười ha hả. Nhưng chỉ lát sau, con quạ trở lại liền bay xả xuống cướp横取りする cái mo của anh Ba: nó đã lập tâm trả thù復讐 anh.
ある日、末弟が玉葱を植えていると、鳥が邪魔するようにやって来て、埋めた種をついばんだ。末弟は怒って煉瓦を投げつけて鳥の足に命中した。鳥はうるさく鳴いて飛んでいった。

末弟は満足して得意げに笑った。しかしすぐに鳥は戻ってきて末弟の鞘を横取りした。鳥は男に仕返しをしたのだった。


     Mà nó trả thù được thực. Nó bay tít
遠くへ đến kinh đô京都, liệng haiすれすれに, ba vòng trên cung điện宮殿 nhà vua, rồi chờ khi vua ra sân rồng, nó bỏ rơi cái mo cau xuống. Vua nhặt lên xem thấy có họa希に dung nhan顔付き một người đàn bà cực kỳ xinh đẹp, thì lấy làm kinh ngạc, tấm tắc感心して舌打ち khen thầm: “Quái! Sao có người đẹp đến thế này!”
鳥の復讐は実現した。鳥は都に向けて地上すれすれに飛んでいった。王の宮殿の上空を三周して王が宮廷の庭に出てくるのを待って鳥はその鞘を地上に落とした。王は拾い上げて綺麗な顔立ちの女性の写真を見て驚き感心してつぶやいた。

“おぉ、なんときれいなんだろう!


     Vua bèn hạ lệnh
下令 cho đòi召喚 thợ truyền thần肖像画家 vào cung để vẽ lại hình người đàn bà đẹp lên trên một trăm cái mo cauひそめる khác, rồi giao交付 cho một trăm sứ giả使者 mang theo đi khắp trong nước để tìm cho bằng được người ấy rước迎える về làm cung phi宮妃 mới nghe.
王は肖像画家を呼びつけて宮殿にその女性の絵かせて宮殿に飾った。100人の使者に国中にこの女性を探し出し側室に迎えるよう交付を持って行かせてた。


     Chẳng bao lâu sứ giả hỏi thăm lần được nhà anh Ba và bắt
nghiến直に chị Ba đem về dâng vua王に捧げる. Vua sung sướng, cất ngay直に chị Ba lên chức Tây cung hoàng hậu皇后 rồi ban yến tiệc cho bá quan văn võ文武百官 trong suốt mấy ngày đêm.
まもなく使者は末弟の家にやって来て、末弟の妻を王宮に連れて行った。

王は喜び西皇后にした。ささやかな宴会を毎晩するように文武百官に命じた。


     Trong khi ấy thì ở gian
偽る lều小屋 chật hẹp狭い tồi tànみすぼらしい anh Ba nhớ vợ đẹp ngồi khóc y ỷ, chẳng thiết切望 gì đến công việc đồng án nữa. Trông thấy những cây hành lá dài bằng đòn gánh củ to bằng bình vôi, anh ta càng khóc to, và anh ta nghĩ thầm: “Đem bán quách棺桶 đi thôi, chứ để luống hành lại, mình chỉ tổ nhớ đến vợ!”
その間中、粗末で狭い小屋で末弟はきれいな妻を思い出しながら畑仕事ももう出来ないとヒーヒーと泣いていた。葱の葉が長く伸びて

末弟が大声で泣いていたがあることを考えた。“ネギを売りに行こう。
     Anh ta bèn xếp
畳む một gánh nặng重責 trĩuたわむ tuy mỗi bên quang chỉ có năm củ hành玉葱 thôi rồi quẩy担ぐ đi rao大声で bán:

末弟は急いで支度をした。明け方早くから大声を出して売り歩いた。


     “ Dọc
長さ・縦 bằng đòn gánh天秤棒

“天秤棒の長さだよ”


     “ Củ
球根 bằng bình vôi石灰.

“真っ白なネギだよ”

 
     “ Ai mua hành tôi
     “誰か葱を買いませんか!”

 

“ Thời thương tôi với!”

  “買ってくださいよぉ!”

 

     Rao mãi chẳng có ai mua, người thường ai dám dùng thứ hành ma quái魔怪 ấy, anh ta bèn gánh đến kinh đô để bán.

声を張り上げても誰も買わなかった。普通は誰もそのような奇妙なものは買わない。末弟は担いで都へ売りに行く事にした。

     Bấy giờ vợ anh ta đang ở trong cung. Tuy đã lên làm Tây cung hoàng hậu
皇后 mà chị ta vẫn thường nhớ chồng cũ chẳng sao khuây khỏa憂いを解消 được. Hôm mới bị bắt, chị ta gào khóc大声で泣く thảm thiết悲惨な. Vua phải dỗ mãiおだてる chị ta mới nín黙る. Nhưng từ đấy, chị ta như ngây愚かな như dại晒す, như câm黙る như điếcつんぼ và cả ngày chẳng buồn hé môi口を少し開く dù chỉ để mỉm một nụ cười.
末弟の妻は宮廷の中にいた。西皇后になった今でも前の夫のことを想い悩みを解消することは出来なかった。捕えられた日、妻は悲愴に泣き喚いた。王はなだめすかしたが沈黙するばかりだった。しかしあれから妻は聞き分けもなく押し黙ったままになり、女性特有の微笑みの口元もわずかにも開こうとしなかったのだった。


     Vua thấy thế lấy làm khổ tâm
苦心 lắm, vì ngài相手 chỉ muốn được ngắm注視 cái cười nghiêng thành美女のたとえ của Tây 西のcung hoàng hậu. Ngài đã sai sứ giả đi khắp trong nước bắt hết các vai hề〜でない có tiếng về làm tròふざける để Tây cung hoàng hậu xem. Nhưng Tây cung hoàng hậu vẫn chẳng cười. Ngài bèn xuống chiếu truyền下命する rằng:
王はそれを見て心苦しく思った。西皇后の美女の微笑みを見つめたいのだ。

国中の芸人が集まって西皇后を笑わせようとしたが皇后は笑わなかったので王は次のよう下命した。


     “ Trong bàn dân thiên hạ, bất cứ người nào hễ làm cho Tây cung hoàng hậu cười một tiếng thì tức khắc
即刻 được cất建てる lên chức thượng thư尚書”.

   尚書=中国の官職名 hễもしであれば/およそであれば/するときはいつでも
「告示書。何人であれ皇后を一言でも笑わすなら即刻尚書の職に使わす。」


    
@Ngày hôm sau, ở khắp các nơi, từ thành thị cho chí〜から〜迄 thôn quê người ta kéo引く về kinh đô như nước chảy để tranh giành争奪 chức thượng thư尚書.

AVì không cần học rộng広い知識 tài cao才能, sôi沸く kinh nấu sử chỉ cốt làm hề khéo léo巧みな là được nhảy lên ngồi ghế thượng thư ngay thì ai mà không háo hức勇んで.

 Nghe đâu, trong bọn có cả mấy ông trưởng giả giàu xụ gánh tiền nghìn bạc vạn về kinh để toan考慮・積り chạy走る chọt vì họ tưởng chỉ đút lót賄賂を贈る quan thái薄切り giám trình報告 Tây cung hoàng hậu cười cho một cái là mình thành thượng thư liền.
@数日後、農村から都会までのあらゆる場所で人々は水が流れるように都に行き尚書の職に就くことを争った。

Aそれは広い知識も高い才能も

B


     Song không những Tây cung hoàng hậu vẫn không chịu cười mà nghe bọn kia làm trò hề
一芝居, ngài lại càng bực mình苛立つ thêm.
しかし男たちがどんな芝居をしても西皇后は笑う事はなかった。王は徐々に苛立ってきた。


     Giữa lúc ấy, ở ngoài phố lanh lãnh
高く澄み渡る có tiếng rao:

その最中の時、町中から高く澄み渡る声が聞こえてきた。


     “ Dọc bằng đòn gánh,

  “天秤棒の長さだよ”

     “ Củ bằng bình vôi,

“真っ白なネギだよ”

     “ Ai mua hành tôi,

    “誰か葱を買いませんか!”
     “ Thời thương tôi với”.

    “買ってくださいよぉ!”


     Nhận được tiếng chồng, chị vợ sung sướng phá
破壊 lên cười. Vua cùng văn võ 文武伯爵 quan kinh ngạc驚愕, bọn người dự thi trò hề đều thất vọng, thì thấy khi mình nhăn mặt nhăn mũi, khoa chân múa踊る tay, hoàng hậu vẫn không nhích mép少し移動, thế mà đến lúc mình không làm gì cả thì tự nhiên ngài lại bật弾む lên cười.
夫の声を聞いて西皇后は嬉しくて笑ってしまった。誰もが失敗しているので、王は文武官と一緒に驚いた。鼻と顔にしわを寄せて笑い踊った。皇后はまだ動かず、何もすることが出来ない自然に笑った。


     Vua truyền
quân lính兵士 ra xem ai rao. Tức thì quân lính lôi引く anh Ba với gánh hành của anh ta vào. Vua mới bảo anh ta rằng:
王は誰が叫んでいるのか兵士に見に行かせた。すぐに兵士は天秤棒とともに末弟を連れてきた。王は末弟に言った。


     - Trẫm
tốn費す biết bao công của mà vẫn không làm cho hoàng hậu cười được, nay ngươi chỉ rao mỗi một câu đủ khiến cho hoàng hậu cười rất to rất vui. Vậy ngươi có phép許可 gì lạ thế, tâu奏でる ngay với trẫm rồi trẫm ban thưởng尚書 cho.

“今お前は大声を出して皇后を楽しく笑わせた。それでお前その奇妙なことを許す。すぐに奏でるなら朕は尚書をやろう。”

     Anh Ba đặt gánh tâu bày
画作する:
末弟は天秤棒を置いて言った。


     - Bẩm
謹告 đức vua, con cũng không biết tại sao bà hoàng hậu nghe con rao lại cười như thế.
“王様に申し上げます。皇后様はどうして私の叫ぶ声で笑ったのでしょうか。私も分かりません。”


     Vua phán
目下に言う:

王は言った。


     - Vậy ngươi thử rao lại xem nào.

  “ではお前、もう一度叫んでみろ。”


     Anh Ba vâng lời đặt gánh lên vai rao to:

   末弟は返事をして天秤棒を置いて大きな声で叫んだ。


“ Dọc bằng đòn gánh,

  “天秤棒の長さだよ〜”

     “ Củ bằng bình vôi,

“真っ白なネギだよ〜”

     “ Ai mua hành tôi,

    “誰か葱を買いませんか〜!”
     “ Thời thương tôi với”.

    “買ってくださいよぉ〜!”


     Tức thì vợ anh ta lại cười, cười chảy cả nước mắt nước mũi ra. Và chị chàng chỉ trông thấy mặt chồng cũng đủ vui sướng cười ngất
失神する程 rồi, có cần gì phải chồng rao mới cười. Nhưng vua cứ tưởng củ hành玉葱 to tướngデカイ(擬態語) kia có phép lạ変身 bèn bảo anh hàng hành:
皇后は鼻水や涙を流しながら笑い転げた。そして皇后は夫の顔を見てとっても嬉しくなった。ただ夫の大きな叫び声だけに。しかし王はてっきりそのデッカイ玉葱が変身したのかと思い男に言った。


     - Trẫm thử thay đổi quần áo với ngươi xem.
“朕はお前の服と交換してみよう。”


     Rồi vua cởi áo trào, cởi xiêm rồng
竜の袴, tháoほどく mũ vàng đưa cho anh Ba mặc và truyền anh Ba lên ngồi trên ngai cùng với Tây cung hoàng hậu, còn mình thì mặc bộ quần áo nâu của anh ta vào người, quẩy gánh hành của anh ta lên vai rồi rao lớn:
そして王は服を脱ぎ金色の冠をとり、末弟に王の服を着させ皇后の横に座らせた。


 Ai mua hành tôi,

誰か葱を買って

  Thời thương tôi với

お情けをください

 Ai mua hành tôi,

誰か葱を買って

   Thời thương tôi với.

お情けをください


     Anh hàng hành nghe rao liền quát
どなる:

その大きな売り声を聞いて、末弟はすぐに大声で言った。


     - Tên nào dám hỗn hào
礼儀知らずの gánh hàng vào bán trong cung điện nhà vua. Quân lính đâu đem chặt cổ nó cho ta.
“礼儀知らずな男め。王の宮廷の中で葱を売るとは。兵士、やつの首に縄をしめろ。


     Tiếng dạ ran
響き渡る. Quân lính kéo 突進する vào điện anh hàng hành giả hiệu偽の đem chém切り落とす ngay trước sân rồng không kịp及ぶ phân giải分解/表明する.
腹にも響き渡る声だった。兵士はすぐに駆けつけ狂った偽のネギ売りを広場に連れて行き言い訳なの出来なかった。


     Thế là anh Ba lên làm vua, và vợ anh ta thì làm hoàng hậu.
そして末弟は王になり妻も皇后になった。。


KHÁI HƯNG

 

(-^^-) ------------------------------------------------------------------------------♪〜(=^ε^= )

đi buôn đi bán

あるところで買って他で売る

đi làm quan

vua王様の下(臣下)

đến nỗi

~

ban ngày ban mặt

日中

nhẹ hẳn đi

軽くなる

năm ngoái công việc tôi quá bận, năm nay tôi bỏ công việc đó nên thấy nhẹ hẳn đi.

去年は仕事が忙しかったが、今年は辞めたので気が楽になった。

Quãng

長い道のりの途中途中

bốn tầng

4階建ての建物

tầng bốn

建物の4

chng bun (南ではchng thèm )=〜をしようとも思わない
ch
ng kp=〜する間もなく